Cây bơ cao khoảng 20 mét, lá chen kẽ, mỗi lá dài 12-25 cm, hoa không hiện rõ, mầu xanh-vàng, mỗi hoa lớn độ 5-10 mm.
Trái của cây bơ hình như cái bầu nước, dài 7-20 cm, nặng 100g-1kg. Vỏ mỏng, hơi cứng, mầu xanh lục đậm, có khi gần như mầu đen. Khi chín, bên trong thịt mềm, mầu vàng nhạt, giống như chất bơ, có vị ngọt nhạt. Hột trái bơ hình tựa quả trứng, dài 5 - 6 cm, nằm trong trung tâm, mầu nâu đậm, và rất cứng.[2]
Một cây bơ trung bình ra 120 trái một năm. Vườn bơ có khả năng sản xuất 7 tấn trái bơ mỗi hecta mỗi năm, có vườn đạt đến 20 tấn [3]. Cây bơ không hạp vùng lạnh, chỉ phát triển vùng nhiệt đới và ôn đới.
Thịt trái bơ thường được dùng làm nguyên liệu cho các món sinh tố giải khát, hoặc có thể dùng để ăn với bánh mì bằng cách quết lên bánh và rắc thêm một chút đường.
Trong kỹ thuật canh tác cây bơ, vấn đề chọn giống và phối hợp giống là vấn đề cần có nghiên cứu ứng dụng và hướng dẫn của cán bộ chuyên môn. Như đã trình bày, tất cả các giống bơ (phần lớn) hiện đang cho thu hoạch là những giống lai, giống phân ly; do đó phải nghiên cứu tập tính nở hoa để bố trí giống thích hợp thuộc hai nhóm A và B, là công tác phải được tiến hành ngay để có thể phát triển nghề trồng bơ trong những năm tới.
Thông tin chung
Tên thường gọi: Bơ
Tên tiếng Anh: Avocado
Tên la tinh: Persea americana Miller
Tên khác: P. gratissima Gaertn.
Thuộc họ Long não – Lauraceae
Mô tả
Cây gỗ cao tới 15m. Lá xoan, thuôn hay bầu dục, dài 6-25 cm, rộng 3,5-15cm, nhọn góc ngắn ở gốc, có mũi nhọn hay tù ngắn ở chóp. Cụm hoa thành chuỳ dày đặc. Hoa nhỏ, màu xanh lục hay vàng vàng; đài hơi có lông mịn. Quả mọng lớn, nạc, dạng quả lê, hình trứng hay hình cầu, màu lục hay màu mận tía khi chín; thịt mềm, màu vàng lục, có một hạt to với lá mầm nạc.
Thông tin dược học
Bộ phận dùng: Quả – Fructus Perseae.
Nơi sống và thu hái: Loài của miền nhiệt đới châu Mỹ, cũng được trồng ở các xứ nhiệt đới khác. Ở Antilles và California (Mỹ). Bơ được trồng nhiều nhất và cho sản lượng cao. Phi châu và Israel là vùng sản xuất nhiều thứ hai và cung cấp sản phẩm cho châu Âu. Có các giống chính là Mêhicô, Guatemala và Antilles. Ở nước ta, cũng nhập trồng từ đầu thế kỷ 20. Hiện nay vùng sản xuất chính là Lâm Đồng và các tỉnh khác vùng Tây Nguyên.
Thành phần hoá học: Quả Bơ chứa: Nước 60%; protid 2,08%, lipid 20,10%, glucid 7,40%, tro 1,26%, nghèo về chất khoáng; các aminoaacid là: cystin, trytophan; có nhiều chất kháng sinh. Còn có vitamin A, B và C (19-20mg%).
Tính vị, tác dụng: Quả Bơ là một loại thức ăn gần đầy đủ, rất dễ tiêu hoá, làm cân bằng thần kinh. Còn có tác dụng chống tăng độ acid của nước tiểu.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Được sử dụng trong các trường hợp: 1. Mới ốm dậy; có thai; 2. Làm việc quá sức, trạng thái thần kinh dễ kích thích; 3. Thừa acid niệu; 4. Đau dạ dày – ruột, gan – mật. Có thể dùng quả chín để ăn, hoặc chế biến thành những món thức ăn khác nhau, như trộn với nước Chanh, cho thêm đường sữa vào đánh đều thành kem để ăn. Lá cũng được dùng hãm uống để trừ ngộ độc do ăn uống.
Thông tin cây trồng
Khoảng cách trồng
Tuỳ theo chủng và giống đối với chủng Antilles và những giống lai, có thể trồng ở khoảng cách khá thưa: 8×8m hoặc 10×10m.
Vấn đề xen canh
Vào những năm bắt đầu trồng bơ, khi cây bơ toả tán chưa rộng, có thể trồng xen rau đậu nhưng không nên trồng cà chua, khoai tây vì nấm Verticilium có thể lan truyền cho cây bơ.
Biện pháp giữ ẩm
Giai đoạn còn nhỏ, bộ rễ bơ ăn cạn, cho nên vấn đề tưới giữ ẩm và phủ gốc là cần thiết để bơ không bị chết do nóng khô vào mùa nắng; nhất là đối với những vườn bơ trồng bằng cây ghép. Tốt nhất nên tưới phun và không nên tưới đẫm vào gốc.
Bón phân
Tuỳ tuổi của cây giai đoạn cây còn nhỏ có thể bón theo công thức N – P2O5 – K2O với tỷ lệ 1-1-1. Ở cây lớn nên tăng tỷ lệ K2O và N lên theo tỷ lệ 2-1-2. Trước khi trồng và trong những năm đầu, nhất thiết phải bón phân chuồng hoai 10-20 tấn/ha.
Vấn đề tạo tán
Tiến hành từ nhỏ đối với những giống cây cao để tạo dáng cây không cao quá 6m và cành toả đều về các phía. Việc cắt xén cành khô, cành vượt cũng phải thực hiện sau mùa thu hoạch để giúp cây sinh trưởng bình thường và ngăn ngừa không cho sâu bệnh lan tràn.
Trồng cây chắn gió
Thân cành bơ rất dòn, dễ gẫy, nên vấn đề trồng cây chắn gió rất quan trọng. Thường dùng cây dương liễu: (Casuarina equisetifolia) trồng dày cách hàng bơ bìa 6m để che gió và giúp cho đất thêm nhiều chất dinh dưỡng.
Sâu bệnh
1. Sâu
Trên bơ có nhiều loài sâu hại:
- Sâu cuốn lá (Gracilaria percicae Busk): bướm thường đẻ trứng trên lá mới ra, trứng nở thành sâu và lớn dần lên theo lá, nhưng thông thường nhất là sâu nhả tơ cuốn lá lại để làm tổ. Sâu dài khoảng 10mm, xanh và có những lằn ngang không rõ rệt. Trưởng thành, sâu làm nhộng trong các tổ lá, nằm yên 5-7 ngày rồi vũ hóa.
Dùng các loại thuốc trừ sâu nội hấp để phun diệt trừ. Nếu có điều kiện, trước khi phun thuốc, nên gỡ bỏ các tổ lá do sâu cuốn lại để tăng thêm hiệu lực của thuốc.
- Sâu cắn lá: có rất nhiều loài, có hai loài đã được định danh là Seirarctia echo và Feltia subterrania F. Sâu ăn trụi lá làm chết cây con và làm giảm sức tăng trưởng cây lớn. Có thể tìm thấy sâu trên lá, trên cành hoặc vỏ thân cây. Ban ngày, sâu ẩn núp dưới gốc cây, đêm đến bò ra phá hại.
- Rầy bông (Pseudococcus citri Risse): rầy thường xuất hiện vào mùa mưa, chích hút nhựa lá và đọt non, quả non làm cây giảm sức tăng trưởng.
2. Bệnh
Là đối tượng bảo vệ thực vật quan trọng trên cây bơ, gồm các bệnh hại sau:
- Bệnh thối rễ: do nấm Phytophthora cinnamoni gây ra, ở những chân đất có thuỷ cấp cao, nấm xâm nhập làm hư rễ chính (rễ cọc), sau đó nấm lan tràn phá huỷ cả bộ rễ làm cây chết rụi. Cây bị bệnh có tán lá xơ xác, lá đổi sang mầu xanh nhạt rồi rụng. Cành chết dần từ ngọn xuống thân chính.
Biện pháp phòng trừ:
- Chọn giống ghép và gốc ghép chống chịu bệnh. Không dùng hạt giống bị nhiễm bệnh và vườn ươm giống phải tuân thủ các biện pháp phòng chống bệnh phát sinh và lan tràn.
- Trồng bơ trên các loại đất có kết cấu tơi xốp, tầng đất canh tác đủ sâu, rút nước nhanh khi mưa.
- Tuyệt đối không dùng nước từ những vườn bơ bị bệnh để tưới.
- Phải tẩy uế nông cụ kỹ càng.
- Phát hiện kịp thời những vết thối trên thân, cạo sạch và quét sulfate đồng – vôi đặc. Khi cây chết vì bệnh, nên đào và huỷ bỏ để bệnh không lan tràn.
- Bệnh đốm lá (Cerocospora purpurea): bệnh hại lá và trái, nấm bệnh xuất hiện rải rác trên lá có hình dạng và kích thước gần giống nhau, hình có góc cạnh hoặc hơi tròn, mầu nâu. Những đốm này cũng có thể liên kết lại với nhau thành những mảng. Trên trái bệnh tạo nên những mụt lồi cỡ 5mm, có mầu nâu nhạt đến nâu đậm. Trái bị bệnh mất giá trị. Bệnh tồn tại trên lá già để phát tán khi có điều kiện thích hợp.
- Bệnh khô cành (Colletotrichum cloeosporiodes): nấm xâm nhập vào trên cành thường làm cành khô chết. Trên trái đã già, gần chín, nấm thường xâm nhập vào những chỗ do trái cọ sát hoặc bị thương tích hoặc do công trùng chích hút, ăn vỏ quả, làm cho trái bị nhũn (thường là ở phần cuối trái).
- Bệnh héo rũ (Verticillium albo – atrum): cây bị nhiễm nấm thường đột nhiên bị héo lá trên một phần cây hoặc khắp cây. Lá bị chết rất nhanh, đổi thành vàng nhưng lá khó rụng. Nếu lột vỏ của cành hoặc rễ cây đã chết sẽ thấy những đường sọc mầu nâu ở phần tiếp giáp vỏ và gỗ. Sau thời gian vài tháng, mầm non phát sinh trở lại trên những nhánh chưa chết và trong vòng một hoặc hai năm, cây sẽ sống trở lại bình thường và không còn triệu chứng gì cả. Nấm tồn tại trong đất và gây bệnh cho nhiều loại thực vật ở bất cứ tuổi nào. Cây bệnh có thể chết luôn hoặc sống trở lại, đối với những cây bị bệnh một phần thì phần bệnh không thể cho trái trong vòng một hoặc hai năm. Thường áp dụng các biện pháp phòng trừ như sau:
- Dùng thuốc hóa học.
- Cắt xén kỹ khi cây vừa có triệu chứng bệnh, sau khi cây bị bệnh phục hồi, cắt bỏ những nhánh nhỏ, chết.
- Không dùng cành tháp của những cây đã bị bệnh, nên dùng gốc ghép là những giống thuộc chủng Mexico.
- Không nên xen canh hoặc luân canh bơ với các cây họ cà,…
- Không trồng cây trên đất kém thông thoáng, ẩm thấp và úng thuỷ.
Thu hoạch và sử dụng
Cây ươm hạt bắt đầu có trái sau khi trồng được 5 hoặc 7 năm. Cây tháp bắt đầu cho trái bói sau khi trồng 1 đến 2 năm, nhưng không nên duy trì để thu hoạch quả những năm đầu (3 năm trở lại); đến năm thứ 4 chỉ để một số trái tương xứng với hình vóc của cây; và năm thứ 5 khi tiềm lực cây đủ cho năng suất thì không tỉa bỏ trái nữa mà chỉ áp dụng cho những giống có khuynh hướng ra trái quá sức như Booth 8 chẳng hạn.
Sau khi cây trổ hoa được từ 6 -12 tháng thì trái chín, thời gian này tuỳ theo giống. Năng suất cũng biến thiên rất nhiều theo giống, nhưng năng suất bình quân thường 8-20 tấn/ha. Việc tiến hành thu hoạch, thời điểm hái trái sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến phẩm chất cũng như điều kiện bảo quản, vận chuyển. Thông thường dựa vào màu sắc của da, nhưng ở Califorlia, người ta giám định hàm lượng dầu trong cơm.
Trái bơ có thể bảo quản lạnh hoặc ở nhiệt độ thường. Thông thường các giống bơ có thể bảo quản lạnh ở nhiệt độ 7 độ C, nhưng những giống thuộc chủng Antilles phải được bảo quản ở nhiệt độ cao hơn 12 độ C.
Trái bơ được sử dụng bằng nhiều cách, cách giản dị nhất là ăn với đường, sữa hoặc muối tiêu. Trái bơ còn được dùng như món rau salade hoặc trộn với rau diếp, đậu, cà chua, tương ớt… Trái bơ còn được cắt ra trộn vào canh để ăn khi còn nóng rất ngon. Trái bơ không thể để lâu hoặc đóng hộp được, tuy nhiên người ta còn dùng trái bơ để làm kem.
Trong kỹ nghệ, dầu trái bơ được dùng làm xà phòng hảo hạng và các loại mỹ phẩm cao cấp.
Nguồn thông tin:
1. Cây cảnh Việt Nam – Caycanhvietnam.com
2. Y học cổ truyền Tuệ Tĩnh – Irc-hueuni.edu.vn